Nàng Kỷ thị kể chuyện Lữ Đồng Tân theo Phật

Câu chuyện nàng Kỷ thị kể chuyện Lữ Đồng Tân theo Phật kể về ông Lữ Đồng Tân là người ở xứ Kinh triệu, đời nhà Đường, hiệu là Thuần Dương Tử.

Lữ Đồng Tân theo Phật

Ban sơ, ông học Nho, đã thi ba lần mà không đậu, sẵn dịp gặp ngài Hớn Chung Ly dẫn ông về Chung Nam, ở trọn vẹn bảy năm và truyền đủ các phép Tiên thuật.

Có một bữa nọ, ông Lữ Đồng Tân muốn đi khắp thế gian mà độ người, bèn vào xin phép thầy.

Ngài Hớn Chung Ly bằng lòng, lại lấy cây gươm báu trao cho ông mà dạy rằng: “Cây gươm này là của thầy Đông Hoa Đế Quân truyền lại cho ta. Như muốn sát hại người nào, thì phải biết trước tên họ và chỗ ở của người ấy, rồi niệm một câu chú, thì cây gươm đó hóa ra con rồng xanh, bay đến chỗ mà chém đầu liền.

Nay ta ban cho ngươi đem theo mà hộ thân, song ngươi phải nhớ ba điều này, một là đừng chọc ghẹo thầy chùa, hai là đừng để mất cây gươm báu này, ba là ngươi đi mãn ba năm rồi phải trở lại về đây. Nếu ngươi cãi lời thì ta không dung thứ.

Ông Lữ Đồng Tân phụng mạng lạy thầy mà lãnh gươm, rồi hạ sơn.

Ông đi đủ các xứ đã mãn kỳ ba năm mà không độ được người nào hết.

Có một bữa kia, ông đi ngang qua xứ Huỳnh Long, nghe nói rằng tại nhà quan Phó công tên là Vĩnh Thiện, có thiết một cuộc chay, làm lễ trai tăng cúng dường các nhà sư.

Ông bèn vào chơi và muốn dự lễ trai ấy, nhưng ông Phú công nói rằng: “Ta cúng dường đệ tử của Phật, chớ không phải cúng dường đệ tử của Tiên. Vậy ngươi không được phép dự vào lễ này”.

Ông Lữ Đồng Tân bèn hỏi rằng: “Phật nhà ông có đạo đức gì mà ông trọng như thế?”

Ông Phó công trả lời rằng: “Đừng nói chi đến chuyện các Phật sống thuở trước. Hiện nay có Hòa thượng Huệ Nam ở chùa Huỳnh Long, thường thuyết pháp độ người biết mấy chục ngàn lần rồi. Còn đạo Tiên của ngươi lâu nay có thầy độ được người nào chưa?”

Ông Lữ Đồng Tân nghe hỏi vậy, lấy làm thẹn thùng, quên lời thầy căn dặn, liền đi đến núi Huỳnh Long quyết tìm Hòa thượng Huệ Nam mà đấu phép.

Khi đến đó, thì ông vừa gặp sư cụ đang lên nhà giảng đường. Ông bèn lén xen vào hàng đại chúng, dè đâu Hòa thượng biết trước, bèn vỗ cái giá sách mà nói rằng: “Bữa nay ta không thuyết pháp! Ta có một lời chuyển ngữ hỏi đại chúng”.

Sư cụ mới vừa nói tới đó, thì thấy một người (tức là ông Lữ Đồng Tân) ở trong hàng đại chúng bước ra cười, rồi hỏi rằng: “Hòa thượng có câu chi, xin nói mau mau!”

Sư cụ nói rằng:

Lão tăng năm nay lớn gan,
Đóng trại dưới núi rồng vàng,
Tay áo tuốt ra roi sắt,
Đánh tan thế giới ba ngàn,

Ông Lữ Đồng Tân vỗ tay cười và đáp lại rằng: “Hòa thượng năm trước chẳng lớn gan, năm ngoái chẳng lớn gan, sang năm chẳng lớn gan, chỉ có năm nay là lớn gan. Xin Hòa thượng cho phép tôi trả lời:

Gan ta lúc này to dại,
Chuyên sự hơn thua cướp trại,
Giựt quách roi sắt trong tay,
Để lại ba ngàn thế giới.

Ông Lữ Đồng Tân bèn nói tiếp rằng: “Bốn câu của Hòa thượng tầm thường, không chi lạ! Tôi có một lời chuyển ngữ này, như Hòa thượng trả lời được, thì chém tôi, còn như trả lời không được, thì tôi chém Hòa thượng”.

Sư cụ bằng lòng, rồi ông Lữ Đồng Tân đọc bài kệ như vầy:

Thiết vàng cày đất trĩa kim tiền,
Thằng đá con con xỏ chuỗi liên,
Hột lúa chứa xong bầu thế giới,
Nửa nồi nấu đủ cuộc sơn xuyên,
Mấy ông Lão Tử khi thùy địa,
Tay của Hồ Tăng lúc chỉ thiên,
Huyền ấy chớ rằng chưa hết lực,
Trong huyền, huyền ấy lại không huyền.

Hòa thượng Huệ Nam liền đáp kệ lại rằng:

Sẵn lò hồng để trĩa kim tiền,
Mãnh sáng kia ai xỏ đặng liền,
Hột lúa hóa đặng ba ngàn đới,
Biển lớn thâu về đủ bách xuyên,
Tháng hạ đầu lò phun mãnh hỏa,
Trời Đông đáy nước nạp lương thiên,
Chân như ai tỏ trong thiền ấy,
Trong thiền, thiền ấy có sanh thiền.

Ông Lữ Đồng Tân nghe mấy câu kệ đó, thì biết mình đã thua rồi, nhưng ông còn gượng mà hỏi: “Hòa thượng nói rằng hột lúa hóa ra ba ngàn thế giới, thì Hòa thượng thua rồi!”

Sư cụ bảo rằng: “Ngươi muốn điều chi, thì lại gần đây mà nói, chớ ta điếc mà ngươi đứng xa nói, thì ta nghe không được”.

Ông Lữ Đồng Tân tưởng thiệt, bèn bước lại gần bên, dè đâu thình lình sư cụ lẹ tay chụp đầu ông níu lại mà hỏi rằng: “Ngươi nói một hột lúa hóa chẳng được ba ngàn thế giới, thì ngoài cái nồi nửa cân của ngươi đó nấu những vật gì?”

Ông Lữ Đồng Tân nghe hỏi như vậy bèn ngẹn họng không đáp lại được.

Sư cụ liền nói tiếp rằng: “Nếu y như lời giao ước của ngươi thì phải chém đầu ngươi. Nhưng vì đạo Phật của ta đây cấm sát sanh nên ta tha ngươi đó”.

Nói rồi, sư cụ lấy dây xích đánh lên đầu ông Lữ Đồng Tân một cái, làm ông thẹn thùng đỏ mặt, vội lui chân ra ngoài, nghinh mặt lại ngó trộm sư cụ, và mang gươm đi thẳng về núi.

Đến chỗ vắng vẻ không người, ông bèn rút gươm báu ra, họa bùa niệm chú, rồi dặn cây gươm bay tới chùa Huỳnh Long mà giết Hòa thượng Huệ Nam. Dặn dò xong xuôi, ông bèn hét lên một tiếng, thì cây gươm ấy liền hóa ra con rồng xanh, bay thằng đến nhà phương trượng của sư cụ.

Khi ấy Hòa thượng Huệ Nam thấy con rồng xanh bay liệng trên hư không, liền lấy ngón tay chỉ lên, tức thì con rồng xanh bèn hóa lại cây gươm mà rớt xuống cắm dưới ao bùn.

Ông Lữ Đồng Tân ngồi trên núi trông đợi hơn nửa ngày mà không thấy con rồng xanh bay trở về, bèn niệm chú thâu cây gươm lại mà không thấy chi hết.

Chừng ấy hồn vía của ông sảng lạc, không biết tính làm sao, phải liều mạng chạy xuống chùa Huỳnh Long mà tìm cây gươm báu.

Đến nơi gặp ngài Huệ Nam, thì ông hỏi rằng: “Xin Hòa thượng trả lại gươm cho tôi”.

Sư cụ đáp rằng: “Ai mượn gươm của ngươi mà ngươi đến đòi, nó cắm dưới ao bùn kia kìa, ngươi ra đó mà lấy”.

Ông Lữ Đồng Tân nghe nói liền chạy ra ngoài ao, cuối xuống nắm cây gươm, gáng sức bình sanh mà nhổ lên, nhưng chẳng nhúc nhích chi hết.

Sư cụ thấy vậy bèn nói rằng: “Ngươi muốn giết ta, thì ta chẳng trả gươm ấy lại cho ngươi. Ngươi có giỏi, thì tự nhổ lấy!”

Ông Lữ Đồng Tân bèn van xin sư cụ rằng: “Hòa thượng dùng phép thuật cắm trụ cây gươm ấy rồi, thì tôi làm sao nhổ lên nổi. Vậy Hòa thượng có lòng từ bi, xin trả cây gươm cho tôi, và nhổ lên giùm”.

Sư cụ bèn đáp rằng: “Ta có bốn câu kệ, nếu ngươi hiểu được thì ta đây trả cây gươm lại cho”.

Nói rồi, ngài lấy một tờ giấy vẽ một cái vòng, trong vòng ấy chấm một điểm, rồi dưới cái vòng lại đề bốn câu kệ như vầy”

Đầu gươm có đơn hẳn,
Lòng đơn sẵn gươm rồi,
Bằng ai hiểu nhơn ấy,
Ắt thoát khỏi luân hồi.

Ông Lữ Đồng Tân xem đi xem lại hồi lâu mà không hiểu chi cả.

Hòa thượng thấy vậy, bèn niệm chú rằng: “Án Hộ Pháp Thần linh tốc tốc hiện hình”.

Khi niệm chú xong, thì thấy ông Hộ Pháp hiện đến.

Sư cụ bèn bảo rằng: “Ngài đem tên này giam cầm trong núi Khổn Ma Nham, mỗi ngày chỉ cho ăn một cái bánh mà thôi, chờ chừng nào hắn tỏ ngộ được thiền cơ, rồi hãy dẫn tới đây cho ta hỏi”.

Ông Hộ Pháp phụng mạng bảo ông Lữ Đồng Tân đi mà ông dùng dằng không chịu đi.

Ông Hộ Pháp bèn nói lớn rằng: “Đi mau, kẻo cái bảo xử của ta đây nặng hơn tám vạn bốn ngàn cân, nó giáng xuống một cái thịt xương đều nát như bùn”.

Ông Lữ Đồng Tân nghe nói thất kinh hồn vía, bèn ríu rít đi theo, không dám cãi nữa.

Có một bữa, gặp lúc ông Hộ Pháp đi khỏi, ông Lữ Đồng Tân ở trong hang đá bèn tự nghĩ rằng: “Khi mình hạ sơn đi, thầy có căn dặn đừng chọc ghẹo thầy chùa. Bởi vì mình dại, không nghe lời thầy, nên mới bị nạn như vầy”. Còn ông Hòa thượng nói rằng: “Chừng nào mình tỏ ngộ thiền cơ, thì mới tha tội, mà biết đời kiếp nào mình tỏ ngộ được thiền cơ ấy. Cổ nhân có nói “Tam thập lục kế dĩ đào vi thượng”. Ở đây khổ cực lắm, chịu không nổi, vậy mình tính bề trốn đi thì tiện hơn”.

Ông Lữ Đồng Tân tự nghĩ như vậy, rồi lén bò ra cửa hang đá, cỡi mây bay về núi Chung Nam, vào quỳ trước mặt thầy mà thọ tội.

Ngài Hớn Chung Ly thấy ông trở về mà không có cây gươm báu và nghe ông tỏ hết đầu đuôi tự sự, thì ngài nổi giận mà mắng rằng: “Ta đã dặn dò ba chuyện mà ngươi đều phạm cả, lại còn bị người ta đánh u đầu, làm xấu hổ trong đạo. Ngươi còn mặt mũi nào mà về đây nữa”.

Ông Lữ Đồng Tân van lạy mà thưa rằng: “Tội của con đã phạm rồi, trăm lạy thầy dung thứ cho con nhờ và xin thầy dùng phương pháp chi mà thâu cây gươm báu về, chớ ông Hòa thượng đã cắm dưới bùn rồi, mà con đọc chú thâu về không được”.

Ngài Hớn Chung Ly quở rầy một hồi lâu, rồi viết một bức thư trao cho ông Lữ Đồng Tân, bảo đem đến chùa Huỳnh Long mà đưa cho Hòa thượng Huệ Nam.

Sư cụ lấy thư thì xé ra xem, thấy có vẽ một cái vòng mà ở trên thì chấm một điểm, còn ở dưới thì đề bốn câu kệ như vầy:

Đơn vẫn là gươm,
Đặng đơn biết gươm,
Gươm vẫn là đơn,
Đặng gươm biết đơn.

Sư cụ xem thơ rồi, bèn nói với ông Lữ Đồng Tân rằng: “Ta vì tưởng thầy của ngươi, nên mới trả cây gươm ấy lại. Thôi, ngươi ra lấy đi”.

Ông Lữ Đồng Tân bước ra ao mà nhổ cây gươm, thì thấy nhẹ bổng, cầm gươm trở vô lạy sư cụ mà xin cho biết cái lý huyền diệu trong thư.

Sư cụ hỏi rằng: “Ngươi có chịu quy y Tam Bảo, thì ta sẽ truyền cho”.

Ông Lữ Đồng Tân đáp lại rằng: “Tôi xin tình nguyện quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, và nguyện làm đệ tử của Hòa thượng”.

Sư cụ bảo ông quỳ xuống và hiệp chưởng tịnh tâm mà nghe mấy lời này: “Bữa trước ngươi nói rằng một hạt lúa đựng cả thế giới, ấy là nhỏ mà hàm lớn, nên ngoài cái vòng có một chấm.

Còn ta thì nói rằng một hạt lúa hóa ra ba ngàn thế giới, ấy là lớn mà hàm nhỏ, nên trong cái vòng có một dấu chấm”.

Ông Lữ Đồng Tân theo Phật, nghe rồi liền tỏ ngộ được chân tánh, tức thì làm một bài kệ mà trình cho sư cụ xem như vầy:

Quăng bầu, ném dây, đập luôn đơn,
Cái thuốc trường sanh cũng chán lờn,
Từ gặp Huỳnh Long truyền phép Phật,
Mới hay ngày trước lỗi đường chơn.

Câu chuyện ông Lữ Đồng Tân theo Phật kết thúc, nàng Kỷ thị nói tiếp rằng: “Thiếp vừa mới dẫn lại cho phu tướng biết câu chuyện Lữ Đồng Tân theo Phật, đủ chứng rằng phương pháp của Phật cao siêu huyền diệu”.

Chồng hỏi: “Câu chuyện Lữ Đồng Tân theo Phật đó trong sách chép lại, nên không bằng cớ làm sao cho ta đem lòng tin. Còn như hiền thê tụng kinh niệm Phật đó có ích gì không?”

Vợ đáp: “Có ích lắm chớ! Bởi vì vọng tâm của con người không thể nào mô tả hết được, như là muốn giàu sang, ham danh lợi, ham muốn hư danh, không có giới hạn bờ bến chi hết.

Nếu nương theo giáo pháp của Phật, thì trước phải quy y ngôi Tam Bảo, rồi thọ phát ngũ giới, và thường mỗi đêm thọ trì tụng đọc một biến kinh là sở dĩ để thâu phóng cái tâm lại, để có chỗ quy nhất. Nếu để cho vọng tâm thắng nổi chân tâm, thì càng lừng lẫy mà tạo ra muôn điều ác mà không hay biết. Còn niệm Phật, đúng thật là một phương thuốc vô hình để thâu phóng cái tâm lại, tiếng chuông lằn mỏ để đánh thức hạng người tranh danh đoạt lợi.

Chồng hỏi: “Như người tu theo chánh pháp của Phật, đến ngày kết quả ra thế nào?”

Vợ đáp: “Nếu ai mà một lòng tin tưởng giáo pháp của đức Như Lai được hoàn toàn chánh niệm, thì đến ngày kết quả, tùy theo công phu ít nhiều mà hưởng phước cõi Nhân Thiên.

Như người nào tu về quả hữu lậu, hoặc là bắc cầu bồi lộ, hoặc là bố thí cúng dường, hoặc là sùng tu chùa miếu, thì ngày sau sanh lên cõi Thế gian này, được làm: Công, Hầu, Khanh, Tướng hay là Sĩ, Nông, Công, Thương sang cả vô cùng.

Còn nếu người nào tu về quả vô lậu, hoặc là tham thiền nhập định, hoặc là dưỡng tánh tồn thần, hoặc là trì trai giữ giới, dứt hết nghiệp duyên, thì linh thức sẽ được tiêu diêu tự tại nơi cõi Lạc bang, chẳng sanh chẳng diệt, hết Luân hồi trong lục đạo nữa.

Chồng hỏi nữa: “Còn người không tu hành, thì kết quả thế nào?”

Vợ đáp: “Nếu người nào không tu hành, thì vọng tâm càng lừng lẫy, nên tạo ra biết bao nhiêu là tấn tuồng bi ai thảm khốc, song hễ tạo nhơn nào thì bị quả ấy, không sai chạy một mảy.

Hai vợ chồng đàm luận như thế, mà chàng Các Tế vì bị tiêm nhiễm cái lý thuyết “trường sanh” của Tiên thuật đã sâu rồi, nên nàng Kỷ thị biện bạch đúng đắn thế nào, chàng cũng không thức tỉnh, trong lòng còn hoài nghi mãi.

Có một ngày kia, nàng Kỷ thị đang ngồi xem kinh, ngửa mặt nhìn lên, thấy trời trong thanh bạch, thoạt có lọng báu phất phơ, phướng tán rực rỡ, từ mé Tây bay đến, có Phật ngồi kiết già, hào quang sắc vàng chói sáng, lằn kim quang thấu khỏi ngoài mây.

Nàng liền ngừng xem kinh, vui mừng nghĩ rằng Chánh pháp nói “Vô lượng thọ Phật” quả thiệt rõ ràng chẳng sai.

Nàng bèn cúi đầu đảnh lễ, rồi gọi chồng ra mà chỉ chỗ Phật phóng hào quang đó cho chàng xem.

Các Tế chỉ thấy phân nửa thân mình của Phật và lọng báu phất phơ, phướng tán rực rỡ mà thôi, vì khi ấy đã lặn gần hết.

Cũng trong khoảng Phật phóng kim quang đó, hết thảy trong chốn thôn lý, kẻ già người trẻ, đều thấy một lượt rõ ràng như vậy. Thiệt là linh cảm vô cùng!

Từ đó về sau, chàng Tế Các mới hồi tâm hướng đạo như ông Lữ Đồng Tân theo Phật, mà phát nguyện quy y và hết lòng tín ngưỡng theo Phật giáo.

Vì cái nguyên nhân cảm cách ấy, nên nội trong quận Tri Xuyên, cũng như ông Lữ Đồng Tân theo Phật, thiện nam tín nữ cũng quy y theo Phật giáo rất đông, và tinh tấn thành kính vô cùng.

Nói tóm lại, nhờ nàng Kỷ thị có lòng tín ngưỡng Phật pháp, nên mới cảm hóa được chồng khỏi lạc vào nẻo thiên ma ngoại đạo, mà lại ảnh hưởng luôn những người trong quận quy về đường chân chánh nữa.

Chàng Các Tế có một người vợ như thế, thì hạnh phúc gia đình còn chi sánh bằng.

Còn nàng Kỷ thị cũng đáng bia danh muôn đời cho kẻ hậu lai rõ biết.

Cảm ơn các bạn đã xem hết bài viết “Nàng Kỷ thị kể chuyện Lữ Đồng Tân theo Phật”. Xem thêm các bài viết hay về nhân quả ở link bên dưới.

Câu chuyện nhân quả thí ít được nhiều

Câu chuyện nhân quả quy đầu về Phật pháp

Câu chuyện nhân quả con nai cầu cứu mạng

Theo Dõi Taonon.vn trên Facebook Tại Đây